Trần Lân

Cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA: Những điều Doanh nghiệp Việt cần biết

Hiệp định EVIPA ra đời trong bối cảnh tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu tư tham gia Hiệp định có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Việc nghiên cứu nắm rõ những ưu việt của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA sẽ giúp các bên tận dụng lợi thế và giảm thiểu thiệt hại khi xảy ra xung đột lợi ích trong đầu tư.

Hiệp định EVIPA quy định ba phương thức giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư: Thông qua Tòa đầu tư, Hòa giải, và Tòa trọng tài. Trong đó đáng lưu ý nhất là phương thức giải quyết bằng Tòa án đầu tư, phương thức này có nhiều điểm mới. Sau đây Pháp lý xin điểm lại những ưu việt của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA mà Doanh nghiệp Việt cần biết nhằm tận dụng lợi thế và giảm thiểu thiệt hại khi xảy ra xung đột tranh chấp trong đầu tư.

1-1691385445.jpg

Nghiên cứu nắm rõ những ưu việt của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA sẽ giúp các bên tận dụng lợi thế và giảm thiểu thiệt hại khi xảy ra xung đột lợi ích trong đầu tư.

1. Tòa án đầu tư thường trực và Hội đồng tài phán phúc thẩm có quyền đảo ngược phán quyết

Với Hiệp định EVIPA đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam quy định cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực trong một Hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam. Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp truyền thống, EVIPA không sử dụng cơ chế trọng tài đầu tư quốc tế mà thiết lập một thiết chế cố định để giải quyết tranh chấp đầu tư là Tòa án đầu tư thường trực và xây dựng khung thời hạn tố tụng cụ thể nhằm giải quyết tranh chấp nhanh chóng, kịp thời. Bên cạnh đó, để thiết chế cố định được thực hiện có hiệu quả, EVIPA bổ sung các quy định điều chỉnh, như: Quy định về tính minh bạch, quy định nhằm nâng cao hiệu quả của biện pháp thi hành phán quyết; các quy định về hạn chế khởi kiện, bên thứ ba tài trợ cho vụ kiện hay các biện pháp bảo đảm chi phí tố tụng…

Mỗi tranh chấp đầu tư khi đưa đến Tòa đầu tư sẽ được một hội đồng xét xử của tòa sơ thẩm giải quyết và nếu có kháng cáo, kháng cáo sẽ do một hội đồng xét xử của tòa phúc thẩm giải quyết.

Hệ thống Tòa đầu tư tại EVIPA bao gồm Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm. Nếu như Tòa sơ thẩm có 09 thành viên (trong đó 03 thành viên là công dân EU, 3 thành viên là công dân Việt Nam và 03 thành viên là công dân của các nước thứ ba khác); thì Tòa phúc thẩm có 06 thành viên  (trong đó gồm 02 thành viên là công dân EU, 02 thành viên là công dân Việt Nam và 02 thành viên là công dân của các nước thứ ba khác). Thành viên là công dân của nước thứ ba sẽ làm chủ tọa hội đồng.

Về thời gian của quy trình tố tụng ở 2 cấp tòa trong EVIPA được điều chỉnh cụ thể. Theo đó, trong vòng 06 tháng kể từ ngày nguyên đơn yêu cầu tiến hành các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp hoặc trong vòng 03 tháng kể từ ngày họ gửi thông báo dự định nộp hồ sơ khiếu kiện, Hội đồng tài phán sẽ được thành lập trong vòng 90 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ khiếu kiện và sẽ tiến hành tố tụng theo một thủ tục rất chặt chẽ về thời gian.

Hội đồng tài phán sẽ ban hành phán quyết tạm thời trong vòng 18 tháng kể từ ngày nộp hồ sơ khiếu kiện và thời hạn giải quyết khiếu nại dựa trên yêu cầu của bên tranh chấp sẽ không vượt quá 06 tháng. Như vậy, thời hạn thủ tục tố tụng thuộc thiết chế ISDS trong EVIPA chỉ kéo dài khoảng 02 năm và không cho phép bất cứ sự trì hoãn nào đối với quá trình tố tụng nói trên.

Đặc biệt là, trái với thẩm quyền hạn chế trong thủ tục huỷ bỏ phán quyết trọng tài, Hội đồng tài phán phúc thẩm trong EVIPA có thể thay đổi hoặc đảo ngược phán quyết ban đầu nếu thấy rằng sự thay đổi đó là cần thiết và phù hợp. Phán quyết cuối cùng của Tòa đầu tư sẽ được mỗi bên của hiệp định thi hành như thể là bản án tòa án cuối cùng của bên đó và sẽ không bị kháng cáo, xem xét lại, hủy bỏ… Vì vậy EVIPA đánh dấu mốc quan trọng khi quy định khả năng thi hành ngay lập tức các phán quyết của tòa tại quốc gia thành viên mà không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước.

2.  Các bên không thể can thiệp vào quá trình thành lập hội đồng xét xử.

Hiệp định nghiêm cấm việc lựa chọn các cơ chế tài phán cùng một lúc, hạn chế khởi kiện song song giữa tòa trong nước và trọng tài quốc tế, từ chối tiếp nhận những đơn kiện vô căn cứ, nhằm bảo vệ quyền của các nhà đầu tư hai bên. Theo đó khi nguyên đơn lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư bằng hệ thống Tòa đầu tư thì không được phép chọn các cơ chế tài phán khác. Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp mới đang được nhiều quốc gia ủng hộ nhằm thay thế phương thức giải quyết bằng trọng tài vụ việc, vốn thường quy định tại các hiệp định bảo hộ đầu tư trước đây.

Một ngoại lệ là đối với cấp sơ thẩm, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận để giải quyết bằng hội đồng chỉ gồm duy nhất một thành viên là công dân nước thứ ba. Chủ tịch của cấp tòa tương ứng là những người có thẩm quyền chỉ định thành viên trong Hội đồng xét xử. Việc chỉ định được thực hiện trên cơ sở ngẫu nhiên, không thể đoán trước và đảm bảo cơ hội tham gia xét xử ngang bằng cho các thành viên trong tòa. Để phòng ngừa việc nhà đầu tư lạm dụng quy định về giải quyết tranh chấp đầu tư, cũng như loại trừ những tranh chấp không có căn cứ thì các Hiệp định xác định chi tiết hơn nhà đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định.

2-1691385452.gif

Ảnh minh họa. Nguồn Internet

Đặc biệt nhằm đảm bảo quyền được xét xử công bằng và bình đẳng giữa các bên tranh chấp, trong mỗi vụ tranh chấp, EVIPA quy định “Chủ tịch của Hội đồng tài phán được quyền bổ nhiệm các thành viên cho đơn vị xét xử thuộc Hội đồng tài phán để tiến hành luân phiên xét xử các vụ kiện và đảm bảo thành phần tham gia vào các đơn vị xét xử này phải được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và không được biết trước nhằm tạo cơ hội công bằng cho tất cả các thành viên có thể tham gia”. Các thành viên Hội đồng tài phán được nhận khoản lương hàng tháng để đảm bảo sự sẵn sàng phục vụ của họ cho Hội đồng (retainer free), khoản chi phí này do các bên đóng góp dựa trên trình độ phát triển và được quản lý bởi ban thư ký Trung tâm giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư thuộc Ngân hàng thế giới (viết tắt là Ban Thư ký ICSID). Do đó, các bên tranh chấp sẽ không thể can thiệp trực tiếp vào quá trình thành lập Hội đồng xét xử.

3. Bên thua kiện sẽ phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng

Khác với quy tắc trọng tài UNCITAL và Công ước ICSID, để hạn chế trường hợp nhà đầu tư không đủ năng lực tài chính chi trả phí trọng tài khi thua kiện, EVIPA quy định cụ thể nghĩa vụ của nguyên đơn phải đảm bảo một phần hoặc toàn bộ chi phí nếu có nghi ngờ nguy cơ không đảm bảo chi phí. Bên thua kiện sẽ phải gánh chịu chi phí tố tụng cũng là nằm trong tinh thần cơ chế sàng lọc các khiếu kiện để từ chối tiếp nhận những đơn kiện vô căn cứ.

Đây được coi là một bước tiến mới của EVIPA trong bối cảnh rất nhiều nhà đầu tư lạm dụng cơ chế giải quyết tranh chấp cho những mục đích khác của quá trình giải quyết mâu thuẫn với chính sách hoặc biện pháp của quốc gia nơi họ đến đầu tư. Do vậy mà, đây được coi là một biện pháp cần thiết nhằm hạn chế sự lạm dụng khiếu kiện. Cụ thể tại Điều 3.48 EVIPA quy định về biện pháp bảo đảm chi phí dành cho tố tụng. Hội đồng tài phán có thể dựa trên yêu cầu của một bên trong tranh chấp yêu cầu nguyên đơn cung cấp khoản bảo đảm chi phí cho tất cả hoặc một bên nếu có lý do để tin rằng nguyên đơn có nguy cơ không thể bảo đảm chi phí.

Cũng theo quy định tại Điều khoản 3.48, trong vòng 30 ngày sau khi có lệnh của Hội đồng tài phán hoặc theo một khoảng thời gian nhất định mà Hội đồng tài phán xét thấy phù hợp thông báo đến các bên, mà chi phí không được đóng (nghĩa là không bảo đảm khoản chi phí dành cho tố tụng), thì Hội đồng tài phán có thể ra lệnh hoãn hoặc hủy bỏ quy trình tố tụng. Khoản chi phí tố tụng này, bên thua kiện sẽ phải gánh chịu, bên thắng kiện không phải chịu chi phí tố tụng. Như vậy nguyên tắc thua kiện sẽ phải gánh chịu chi phí tố tụng trong EVIPA được ghi nhận và quy định cụ thể hơn so với các cơ chế IDSD truyền thống. Các chuyên gia lưu ý, các nhà đầu tư phải hết sức thận trọng khi thực hiện quyền khởi kiện, không nên quá lạm dụng cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua phương thức Tòa án đầu tư nếu như các chứng cứ khởi kiện không đủ để thắng kiện, như vậy sẽ gánh thêm thiệt hại.

4. Cân nhắc khi lựa chọn phương thức giải quyết qua trọng tài và qua hòa giải

Ngoài phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa đầu tư, EVIPA còn quy định phương thức giải quyết tranh chấp qua trọng tài và qua hòa giải. Tuy nhiên cần lưu ý là EVIPA không có quy định riêng về tố tụng trọng tài áp dụng cho tranh chấp giữa Nhà đầu tư và chính phủ, nhưng lại có quy định về tố tụng trọng tài áp dụng cho tranh chấp giữa các chính phủ ký EVIPA. Đây là đặc trưng của Hiệp định này nhằm thúc đẩy các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng như đàm phán và hòa giải, xây dựng khung tố tụng để giải quyết tranh chấp nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên nếu lựa chọn theo phương thức này sẽ phụ thuộc vào sự điều chỉnh bởi Quy tắc phụ trợ ICSID (Trung tâm giải quyết tranh chấp về đầu tư) và Quy tắc trọng tài UNCITRAL (Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế).

Theo đó, khi các bên không thể lựa chọn trọng tài trong danh sách được cung cấp sẵn, thì Cơ quan tố tụng bổ nhiệm trọng tài dựa trên danh sách các thành viên của Tòa đầu tư. Mặc dù việc chỉ định trọng tài có thể bị phản đối, các thông tin tiết lộ rất ít ra công chúng, song từ quy định trên cho thấy sự minh bạch trong bổ nhiệm trọng tài là vấn đề quan ngại. Bởi các bên phụ thuộc hoàn toàn vào việc chuẩn bị và công bố danh sách trọng tài do Cơ quan tố tụng bổ nhiệm thực hiện. Ngoài ra quá trình lựa chọn cho một vụ việc cụ thể và các thông tin được đưa ra cũng được thực hiện bởi cơ quan tố tụng bổ nhiệm.

Lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp qua hòa giải cũng là một trong ba phương thức quy định trong EIVPA. Theo đó một bên tranh chấp có thể yêu cầu giải quyết bất cứ lúc nào trong quá trình giải quyết tranh chấp, bằng một văn bản yêu cầu gửi cho bên kia. Bên nhận yêu cầu phải trả lời trong vòng 45 ngày. Hòa giải viên có thể do các bên tranh chấp thỏa thuận chọn trong số các thành viên của Tòa đầu tư. Trong trường hợp các bên không chọn được hòa giải viên, bất kỳ bên nào cũng có thể yêu cầu Chủ tịch Tòa đầu tư cử hòa giải viên trong số các thành viên của Tòa đầu tư mà không phải công dân của Việt Nam hay của các nước thành viên EU. Quá trình hòa giải được phép kéo dài trong vòng 60 ngày kể từ khi hòa giải viên được chọn hoặc đề cử.

Hòa giải kết thúc khi các bên thỏa thuận hòa giải thành; hoặc khi hòa giải viên thông báo không thể hoặc không cần thiết tiếp tục quá trình hòa giải; hoặc khi một bên yêu cầu chấm dứt… Như vậy phương thức giải quyết tranh chấp qua hòa giải trong EIVPA rất dễ rơi vào tình trạng bị “ngâm” khi mà một trong các bên tranh chấp vì một động cơ không lành mạnh. Vì vậy để hạn chế thiệt hại, các bên cần hiểu rõ và áp dụng linh hoạt những quy định trong EVIPA để đảm bảo lợi ích không chỉ của nhà đầu tư mà còn cả lợi ích quốc gia.

3-1691385452.png

Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVIPA) được kỳ vọng đem lại nhiều cơ hội lớn cho nền kinh tế của Việt Nam

Một số việc cần làm khi EVIPA có hiệu lực

Nghiên cứu từ Hiệp định EVIPA, cho thấy cơ chế kiểm soát, giải quyết tranh chấp đầu tư được quy định chặt chẽ hơn so với cơ chế cũ. Từ các quy định về quy trình, thủ tục, thời gian, phạm vi điều chỉnh, giải thích thuật ngữ cho đến phương thức giải quyết tranh chấp được quy định chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa đầu tư thường trực được quy định cụ thể về chủ thể, thời hạn, thời hiệu, yêu cầu hồ sơ, quy trình xử lý, thủ tục tiến hành. Mức độ chi tiết trong IPA thể hiện sự kế thừa và phát triển so với các cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư trước đó trong hệ thống pháp luật đầu tư quốc tế. Điều này góp phần tạo ra sự cân bằng tối đa giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư, giúp giảm thiếu tối đa rủi ro pháp lý cho các Bên.

Vì vậy, Hiệp định EVIPA được kỳ vọng sẽ giúp hạn chế những bất cập hiện có của hệ thống ISDS hiện tại và hạn chế đáng kể việc lạm dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bởi các nhà đầu tư thiếu thiện chí, thông qua việc quy định chặt chẽ hơn yêu cầu khởi kiện và khoanh vùng các ngoại lệ mà Chính phủ được tự do áp dụng biện pháp mà không dẫn tới nguy cơ tranh chấp…

Tuy nhiên để biến những quy định ưu việt trong EVIPA trở thành lợi thế trong giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ/ Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài nhưng không làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư là một vấn đề không đơn giản. Những điểm mới của EVIPA như đã đề cập ở trên sẽ là thách thức không hề nhỏ, đòi hỏi phải có giải pháp ứng phó phù hợp và được chuẩn bị ngay từ bây giờ. Đó là:

+ Yêu cầu về nhân lực để giải quyết tranh chấp theo mô hình Tòa đầu tư thường trực mới trong EVIPA. Áp lực đó càng lớn hơn khi mà những rủi ro của việc lựa chọn cơ chế trọng tài thường trực theo phương thức truyền thống không còn hấp dẫn và thúc đẩy các NĐT trong việc lựa chọn và sử dụng cơ chế Tòa đầu tư. Trong khi đó cơ quan giải quyết tranh chấp EVIPA là hệ thống giải quyết tranh chấp thành lập theo điều ước quốc tế, độc lập với pháp luật của mọi quốc gia và đối với pháp luật Việt Nam chỉ quy định về trọng tài nước ngoài, chưa có quy định liên quan đến phán quyết của loại cơ chế giải quyết tranh chấp như trên. Do đó cần phải có lộ trình để nâng cấp nhân lực tại chỗ và cử đi đào tạo, tập huấn, học hỏi kinh nghiệm từ các nước thành viên EU đã triển khai thực hiện.

+ Khẩn trương thành lập bộ phận chuyên trách trực thuộc Tòa án nhân dân Tối cao, phối hợp với các chuyên gia trong và ngoài ngành tòa án, để chuẩn bị triển khai tốt các quy định điều chỉnh tại Nghị quyết số 113/2020/QH14 về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp đầu tư theo Hiệp định EVIPA (theo tinh thần nội dung quy định tại Mục B Chương 3 của Hiệp định). Cụ thể là trong thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài phù hợp với Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài để xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận Phán quyết đối với bị đơn là Việt Nam…

Đây là bước đi cần thiết để hiện thực hóa hành lang pháp lý theo lộ trình mà Việt Nam cam kết trong Hiệp định EVIPA. Tuy nhiên sẽ là thách thức không nhỏ cho cơ quan tổ chức thực thi (vì việc phải cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài phải đảm bảo đạt được đồng thời nhiều mục tiêu): Vừa tạo dựng một khung pháp lý đầy đủ, có hiệu quả bảo hộ hoạt động đầu tư EU tại Việt Nam và ngược lại, qua đó củng cố niềm tin của các doanh nghiệp trong việc cải thiện, nâng cao sức cạnh tranh môi trường đầu tư, kinh doanh; nhưng phải đảm bảo không tạo ra một cơ chế mới để nhà đầu tư kiện chính phủ và phải đảm bảo tính ổn định của hệ thống pháp luật Việt Nam, không yêu cầu sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan…

+ Ngay từ bây giờ cần rà soát, đánh giá rủi ro tiềm ẩn trong các FTA thế hệ mới, đặc biệt là công tác tuyên truyền, phổ biến đến các nhà đầu tư trong nước các quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong EVIPA, đối chiếu với thực tiễn triển khai các FTA để có các phương án phòng ngừa phù hợp.